Người dân cần nắm rõ 3 điểm mới trong luật cư trú 2020 có hiệu lực từ ngày 1-7
Theo dõi Pháp luật & Xã hội trênSổ hộ khẩu, sổ tạm trú sẽ “khai tử” vào năm 2023
Luật Cư trú 2020 thay đổi phương pháp quản lý cư trú từ sổ hộ khẩu giấy sang số định danh cá nhân được ghi trên căn cước công dân gắn chip. Khi luật này có hiệu lực, cơ quan chức năng sẽ không cấp mới, cấp lại sổ hộ khẩu và sổ tạm trú.
Sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú đã được cấp vẫn còn giá trị sử dụng đến hết ngày 31-12-2022. Từ ngày 1-1-2023, sổ hộ khẩu, sổ tạm trú sẽ không còn giá trị sử dụng.
Từ ngày 1-7-2021, mọi thông tin về cư trú sẽ được cập nhật, thay đổi trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Khi đi làm các thủ tục hành chính, người dân không cần mang sổ hộ khẩu, sổ tạm trú mà chỉ xuất trình căn cước công dân gắn chip.
Bỏ sổ hộ khẩu, sổ tạm trú vào năm 2023. |
Cũng từ ngày 1-7, khi công dân thực hiện các thủ tục đăng ký cư trú dẫn đến thay đổi thông tin trong sổ hộ khẩu, sổ tạm trú thì cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm thu hồi sổ hộ khẩu, sổ tạm trú đã cấp, thực hiện điều chỉnh, cập nhật thông tin trong cơ sở dữ liệu về cư trú. Cơ quan chức năng không cấp mới, cấp lại sổ hộ khẩu, sổ tạm trú.
Các trường hợp bị xóa đăng ký thường trú
Điều 24 Luật Cư trú 2020 quy định 9 trường hợp người dân sẽ bị xóa đăng ký thường trú.
Những trường hợp này gồm: Người đã chết hoặc bị tòa án tuyên bố mất tích; định cư ở nước ngoài; đi khỏi nơi thường trú từ 12 tháng mà không đăng ký tạm trú ở nơi khác; cho thôi quốc tịch; nơi đăng ký thường trú bị cơ quan chức năng có quyết định phá dỡ hoặc tịch thu...
Luật Cư trú 2020 quy định khi đi khỏi đơn vị cấp xã nơi thường trú từ 12 tháng liên tục trở lên mà không phải bị can, bị cáo, người đang trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự, chưa đăng ký tạm trú ở nơi ở mới hoặc không phải xuất cảnh ra nước ngoài thì phải khai báo tạm vắng.
Người dân có thể khai báo tạm vắng trực tiếp tại cơ quan đăng ký cư trú nơi người đó cư trú hoặc khai báo qua điện thoại, phương tiện điện tử hoặc phương tiện khác.
Không còn điều kiện riêng khi nhập khẩu Hà Nội, TP.HCM
Trước đây, theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật Cư trú sửa đổi, công dân được đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc Trung ương phải có thời gian tạm trú tại thành phố đó từ một năm trở lên, nếu đăng ký thường trú vào quận thuộc thành phố trực thuộc Trung ương thì phải có thời gian tạm trú tại thành phố đó từ hai năm trở lên.
Riêng tại Hà Nội, theo Điều 19 Luật Thủ đô, nếu muốn đăng ký thường trú tại TP. Hà Nội thì còn phải tạm trú liên tục tại nội thành từ 03 năm trở lên.
Tuy nhiên, một trong những quy định đáng chú ý khác của Luật Cư trú năm 2020 là xóa điều kiện riêng nêu trên khi muốn nhập khẩu các thành phố trực thuộc Trung ương (như TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh...).
Đồng nghĩa, công dân khi muốn đăng ký thường trú vào TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh thì không còn bị phân biệt về điều kiện mà được áp dụng chung, thống nhất trên toàn quốc như quy định tại Điều 20 Luật Cư trú 2020:
- Công dân có chỗ ở hợp pháp thuộc quyền sở hữu của mình thì được đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp đó;
- Khi được chủ hộ và chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp đồng ý trong các trường hợp vợ/chồng về ở với chồng/vợ; con đẻ, con nuôi về ở với cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi và ngược lại… thì được đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp không thuộc quyền sở hữu của mình…
Đáng chú ý, công dân được đăng ký thường trú tại cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo có công trình phụ trợ là nhà ở.
Trường hợp người sinh sống, người làm nghề lưu động trên phương tiện được đăng ký thường trú tại phương tiện đó khi đáp ứng các điều kiện như: Là chủ phương tiện hoặc được chủ phương tiện đó đồng ý cho đăng ký thường trú; có xác nhận của UBND cấp xã nơi phương tiện thường xuyên đậu, đỗ về việc sử dụng phương tiện đó vào mục đích để ở.
Có thể thấy, quy định này nhằm tạo sự bình đẳng trong việc quản lý cư trú của mọi công dân.
Pháp luật và Xã hội
Mở Zalo, bấm quét QR để quét và xem trên điện thoại